Cựu Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Mỹ Phạm Quang Vinh: “Mạng lưới thịnh vượng kinh tế vẫn chưa manh nha rõ…”

Thời gian gần đây, các cơ quan thông tấn báo chí thường xuyên đăng tải thông tin Việt Nam được Mỹ mời đối thoại cùng Bộ tứ kim cương (QUAD) để tái cấu trúc chuỗi cung ứng với kế hoạch thành lập Mạng lưới kinh tế thịnh vượng. Theo ông Phạm Quang Vinh – cựu Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Mỹ, đây là thông tin cần phải xác thực thêm, tuy nhiên nỗ lực chuyển dịch chuỗi cung ứng khỏi Trung Quốc của Mỹ và nhiều nước là có thật và Việt Nam đang ở trong vị trí có thể tận dụng được cơ hội này.

Về nỗ lực muốn dịch chuyển các chuỗi cung ứng của các nước, đặc biệt là Mỹ ra khỏi Trung Quốc, cựu Đại sứ Phạm Quang Vinh cho biết cạnh tranh chiến lược Mỹ – Trung đã diễn ra nhiều năm trước song phải đến thời kỳ Tổng thống Donald Trump mới được Mỹ đưa vào chiến lược an ninh quốc gia, coi Trung Quốc và một số nước lớn khác là đối thủ. Nhìn lại 3 năm nay, Tổng thống Trump đã đẩy mạnh mũi nhọn cuộc chiến thương mại, có lúc cũng đã từng kêu gọi tất cả các doanh nghiệp Mỹ rút khỏi Trung Quốc hay công bố các đợt đánh thuế cao… để đạt được những thoả thuận kinh tế. Xuyên suốt trong cuộc chơi này là mục tiêu lấy lại vị thế và lợi ích của nước Mỹ. Ngược lại, Trung Quốc nay đã là nền kinh tế số 2 thế giới và đang tìm kiếm những ích lợi mang tính toàn cầu với những giấc mơ của riêng họ; do đó ứng xử giữa hai bên là cạnh tranh gay gắt cả về ngôi vị lẫn thương mại.

Trước khi bước vào đại dịch, Trung – Mỹ đã đi đến một thoả thuận giai đoạn 1. Theo đó, Trung Quốc sẽ mua thêm hàng hoá của Mỹ, đặc biệt là nông sản để giảm thâm hụt thương mại. Đây chỉ là khởi đầu vì giữa hai nước vẫn còn rất nhiều câu chuyện phải giải quyết tiếp, trong đó có vấn đề liên quan đến cải cách của Trung Quốc, chuyển giao công nghệ, an ninh quốc gia có liên quan đến Huawei, ZTE… Đại dịch càng làm cho việc chuyển dịch này trở nên cần thiết hơn lúc nào. Do vậy, đến lúc này, câu chuyện mang cả tính chiến lược và tính cấp bách.

Theo đánh giá của cựu Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Mỹ, sự xuất hiện đột ngột của đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng không nhỏ đến quan hệ Mỹ – Trung. Mặc dù trong và sau đại dịch, cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc vẫn tiếp diễn song đã xuất hiện những điểm khác. Thứ nhất, đây là thời điểm không chỉ nước Mỹ mà nhiều quốc gia khác nhìn nhận lại lợi ích của mình. Qua đại dịch, họ được cảnh tỉnh đã quá phụ thuộc vào chuỗi cung ứng của Trung Quốc dẫn đến thiếu hụt nguồn cung khi xảy ra sự cố. Và ngoài thương mại, họ cũng nhìn ra vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia. Thứ hai là về lòng tin chiến lược. Có lẽ ở giai đoạn này, những khẩu chiến giữa Mỹ, châu Âu với Trung Quốc đã khiến lòng tin xuống rất thấp trong nhiều thập kỷ. Chính lòng tin chiến lược giảm sút khiến việc phụ thuộc hay không phụ thuộc, tiếp tục dính vào Trung Quốc hay không và như thế nào sẽ bị định vị lại. Thứ ba, Covid-19 là đại dịch đầu tiên xảy ra ở khắp nơi, tấn công vào các trung tâm kinh tế lớn trên toàn cầu. Dịch bệnh đã tạo ra những vấn đề lớn trong lòng mỗi quốc gia. Chính vì vậy, các nước phải vực lại chính mình, dẫn đến tính toán lại, thậm chí chính trị hoá, quan hệ với bên ngoài.

Có thể thấy các công ty Mỹ, Nhật, châu Âu rút ra khỏi Trung Quốc bị chi phối bởi cả yêu cầu chính trị và an ninh song rút đi như thế nào lại là bài toán khác. Mặt khác, trong khi sự di dời này nổi lên do cạnh tranh chiến lược thì cũng cũng phải nhìn nhận rõ dịch chuyển chuỗi cung ứng có tính nhiều chiều. Nghĩa là có những dịch chuyển tự nhiên và dịch chuyển không tự nhiên. Gốc của các chuỗi, toàn cầu hoá là lợi ích kinh tế, các công ty đa quốc gia đi các nơi tìm kiếm lợi nhuận, hiệu quả. Vậy nên trong quá khứ, các doanh nghiệp Mỹ, châu Âu mới tìm đến sản xuất ở các nước khác, trong đó có Trung Quốc. 40 năm qua đã có những dịch chuyển tự nhiên như vậy. Nay Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế thứ 2, là công xưởng của cả thế giới. Nhưng khi sản xuất được nâng cấp lên, chi phí lao động tăng cao hơn trước, bản thân Trung Quốc và các công ty nước ngoài ở đây cũng muốn dịch chuyển một phần sản xuất đến địa điểm khác do những hiệu quả cũ không còn.

Ngoài ra, khi nhiều doanh nghiệp đặc biệt là nhóm quy mô nhỏ và vừa khó khăn sau đại dịch Covid-19, thì sự dịch chuyển mang tính thâu tóm là có. Chuỗi cung ứng bị đảo lộn, nhưng khó bị xoá hay thay thế hoàn toàn. Nền kinh tế và mắt xích Trung Quốc lớn lắm, các bên đều cần nhau. Chuyện rút đi chắc chắn có và được đẩy mạnh, để tránh bị lệ thuộc, để đa dạng hoá thị trường cung ứng. Lần này, sẽ không chỉ đơn giản là Trung Quốc +1 mà còn hơn thế. Trung Quốc chắc chắn vẫn là một thị trường cung cấp lớn nhất nhưng sẽ hình thành các chuỗi khác song hành và xoay quanh các trung tâm lớn

Đánh giá về xu hướng dịch chuyển sang Việt Nam, cựu Đại sứ cho biết  Việt Nam nằm ở khu vực phát triển năng động lại rất gần với thị trường Trung Quốc; nền kinh tế mở, kết nối không chỉ rộng với nhiều nước hoặc khu vực kinh tế mà còn ở chiều sâu khi tham gia các FTA thế hệ cao. Đất nước cũng có sự ổn định chính trị cao. Trong đại dịch vừa rồi, Việt Nam cũng kiểm soát rất tốt, giảm thiệt hại tối đa. Những dự báo của IMF hay World Bank cho Việt Nam với các con số tăng trưởng 3 – 4% sau dịch bệnh là rất hãn hữu trên toàn cầu. “Nói vậy để thấy rằng người ta đã tính đến câu chuyện chuyển dịch một phần sang Việt Nam một cách tự nhiên vì sức hấp dẫn của thị trường. Nay họ cũng tính toán để đa dạng hoá chuỗi cung ứng, tránh rủi ro khi đầu tư hết vào Trung Quốc. Và khi có những can thiệp chính trị buộc các doanh nghiệp rời khỏi Trung Quốc, họ cũng sẽ lựa chọn những địa điểm lân cận nước này, có môi trường đầu tư thuận lợi để giảm tối đa chi phí.Do vậy, Việt Nam có thể hứng được cả hai. Nhưng điều này sẽ không mặc nhiên mà đến” – Đại sứ Phạm Quang Vinh nhấn mạnh.

Lý giải cho nhận định này, cựu Đại sứ cho biết không quốc gia nào có thể hấp thụ được toàn bộ sự dịch chuyển từ thị trường 1,4 tỷ dân có quy mô kinh tế lớn thứ 2 thế giới, chiếm 20% thương mại toàn cầu. Có người nói đến Ấn Độ với dân số xấp xỉ, nhưng chưa chắc môi trường pháp lý, lực lượng lao động hay cơ sở sản xuất đã khớp được. Do vậy, không dễ để các doanh nghiệp phút chốc rời bỏ thị trường tỷ dân đang làm ăn tốt. Như vậy, trước hết phải chủ động đón, nhất là về hạ tầng, chính sách, nhân lực. Thuận và có lợi  thì các công ty họ mới đến. Thứ hai, không chỉ có mình Việt Nam mang sức hấp dẫn. Còn nhiều “Việt Nam khác” ngoài kia cùng cạnh tranh. Có những tin đồn sự dịch chuyển nhưng chưa chắc đã ở Việt Nam mà đến Indonesia, trước là Apple, giờ là tin về 27 doanh nghiệp Mỹ. Mặt khác, vì có cả dịch chuyển tự nhiên và dịch chuyển do chủ ý chính trị, lợi ích an ninh quốc gia, rồi cùng một lúc sẽ có cả các dịch chuyển sản xuất cũng như dòng vốn chất lượng cao và thấp. Chính vì vậy yêu cầu lúc này là Việt Nam phải cách giác và phải chọn lọc.

Trở lại câu chuyện ban đầu xoay quanh thông tin Mỹ mời Việt Nam đối thoại QUAD+7, gồm Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ, Úc, Hàn, New Zealand rồi đến thông tin về Mạng lưới thịnh vượng kinh tế, Đại sứ Phạm Quang Vinh cho biết nhìn chung mạng lưới này chưa manh nha rõ. Nếu để dự đoán thì dưới thời Tổng thổng Trump, Mỹ dựa nhiều vào kênh song phương hơn đa phương. “Cái mà tôi nghĩ Việt Nam tiếc nhiều là TPP. Nếu Mỹ quay trở lại với một dàn xếp thương mại nào đó theo mô hình TPP thì có lẽ rất tốt, vốn dĩ mình đã ở trong lòng nó rồi nhưng khó. Nhìn trong 6 nước được nêu thì Nhật, Hàn, Úc trên thực tế chính quyền Trump đã cài đặt lại quan hệ cũng như thương lương lượng lại về thương mại. New Zealand cũng tương tự. Riêng với Ấn Độ, Mỹ đã có sự dịch chuyển lớn về định vị chiến lược cả về chính trị, an ninh, kinh tế. Tôi không nghĩ Tổng thống Trump sẽ cộng những nước này thành một khu vực thị trường, thay vào đó, sẽ đi qua các kênh song phương. Mà nhắc đến 6 nước này, tôi cứ thấy thiếu thiếu Indonesia” – ông Vinh nói.

Có thể thấy trong thực tế, ngay cả những chiến lược mà Mỹ đã công bố cụ thể thì khi triển khai cũng chưa cụ thể. Ví dụ chiến lược Indo-Pacific (khu vực liên Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương), Mỹ đã trao đổi với nhiều nước trong đó có trụ cột kinh tế, có cả đạo luật Build (BUILD Act) trị giá tới 60 tỷ USD để hỗ trợ đầu tư ở khu vực nhưng đến nay, cũng vẫn chưa có nhiều hoạt động. Hay kế hoạch Blue Dot (Chấm Xanh), được xem là lựa chọn đối trọng với BRI, tập hợp các nguồn chính phủ, khu vực tư nhân, dân sự để thúc đẩy các dự án tiêu chuẩn cao, đáng tin cậy trong việc phát triển cơ sở hạ tầng toàn cầu, tập trung vào khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương đến nay chưa triển khai. Tóm lại Mạng lưới thịnh vượng kinh tế là chưa rõ ràng và cần phải tìm hiểu thêm. Tuy nhiên trong chiến lược tổng thể, cộng với tính toán về đa dạng hoá chuỗi cung ứng, trong khu vực này Việt Nam luôn ở vị trí thuận lợi nhưng điều quan trọng là chúng ta có tranh thủ được lợi thế này hay không.

Theo ngài cựu Đại sứ, áp lực lớn nhất của Việt Nam là định vị lợi ích quốc gia và phải tranh thủ được thời cơ để có sự lựa chọn đúng, nghĩa là cần tranh thủ cơ hội từ các trung tâm kinh tế lớn, trong đó có châu Âu, Nhật, Mỹ,  và Trung Quốc. Nhưng phải lựa chọn đúng, mỗi thị trường, Việt Nam cần tạo cho mình lợi thế khác nhau cũng như đối phó với những thách thức khác biệt. Hướng chiến lược của Việt Nam cũng phải phục vụ mục tiêu cao và bền vững hơn, tức là vượt thứ hạng và vươn lên ở nấc cao hơn trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Chính điểm này buộc nước ta phải lựa chọn nguồn vốn đầu tư sạch, công nghệ cao, có tính dài hạn; đồng thời cũng cần chú trọng đa dạng hoá thị trường. Việt Nam ở cạnh một Trung Quốc cung cấp được đủ loại hàng hoá, thị trường 1,4 tỷ dân đầy tiềm năng nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, cả kinh tế lẫn chính trị. Và để thu hút dòng vốn chuyển dịch từ Mỹ, Âu, Nhật…đòi hỏi Việt Nam phải có sự chuẩn bị, mời chào cụ thể chứ không phải tự nhiên mà có. “Tóm lại, câu chuyện làm ăn với Mỹ, sự dịch chuyển của chuỗi cung ứng từ Trung Quốc vẫn còn rất nhiều điều để bàn. Tuy nhiên tôi cho rằng thế giới mà không dịch chuyển thì những nước nhỏ cứ ổn định trong vị trí phụ thuộc. Dù có nhiều thách thức cả chính trị, an ninh, kinh tế nhưng đây là cơ hội cho những nước nhỏ vươn lên, thoát khỏi vị trí cũ nhanh hơn nếu biết nắm bắt” – Đại sứ Phạm Quang Vinh nhấn mạnh.

Theo BizC.vn

Trending

CEO Pfizer được chọn là CEO của năm

Albert Bourla được chọn vì những gì Pfizer đã làm trong năm qua, giúp kinh…

Ông Trương Văn Phước: Gói hỗ trợ kích thích, câu hỏi đầu tiên – tiền đâu?

Về phương án huy động vốn để thực hiện gói hỗ trợ, ông Trương Văn…

Anh thử nghiệm vắc xin Covid-19 thế hệ 2 là miếng dán trên da

Vắc xin Emergex dạng miếng dán sử dụng tế bào T để tiêu diệt tế…

Pfizer công bố thuốc viên trị Covid-19 “hiệu quả 89%”

Hãng dược Pfizer (Mỹ) ngày 5-11 cho biết thuốc trị Covid-19 dạng viên của họ…

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *