Luật sư nói buộc BIDV trả tiền cho NH Xây Dựng tức là phải trả 2 lần cho một khoản tiền gửi
Luật sư bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ cho Ngân hàng BIDV cho rằng, yêu cầu 3 ngân hàng phải trả tiền là không có lợi cho các ngân hàng cho vay mà chỉ có lợi cho VNCB. 3 ngân hàng không phải là người phạm tội cũng không phải là chủ thể chiếm đoạt hay sử dụng trái phép tài sản của VNCB nên không phải là chủ thể phải chịu trách nhiệm.
Chiều ngày 29/1/2018, phiên tòa xét xử vụ án cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng xảy ra tại Ngân hàng TMCP Xây dựng Việt Nam (VNCB), Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương tín (Sacombank), Ngân hàng TMCP Tiên Phong (TPBank), Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) tiếp tục diễn ra.
Luật sư Nguyễn Huy Thiệp bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ cho Ngân hàng BIDV lên tham gia tranh tụng đối đáp lại quan điểm của Viện kiểm sát.
Về quan điểm VKS cho rằng 29 lượt công ty vay vốn tại 3 Ngân hàng TPBank, Sacombank và BIDV, trong đó có 18 công ty của Phạm công Danh và 9 Công ty do Danh mượn pháp nhân để sử dụng vào mục đích riêng, thực chất chính là cấp tín dụng cho các công ty của Danh vay tiền qua 1 ngân hàng khác nên bản chất là 3 ngân hàng cho Danh vay tiền dựa trên bảo lãnh của VNC (nay là CB) nên vi phạm khoản 3 Điều 126 Luật các TCTD.
Luật sư Thiệp tranh tụng rằng, việc cấp tín dụng này không vi phạm. Khi BIDV thực hiện cho 12 công ty vay vốn có sự bảo lãnh một phần bằng tiền gửi của VNCB là tuân thủ quy định pháp luật về cho vay. Hồ sơ pháp lý của 12 công ty này chỉ rõ đây là những pháp nhân hoàn toàn độc lập với cá nhân ông Phạm Công Danh, không có công ty nào sở hữu toàn bộ hoặc một phần của ông Danh và cũng chẳng liên quan đến cá nhân ông Danh.
Các lời khai của ông Phạm Công Danh và các đồng phạm khác từ cơ quan điều tra đến tại phiên tòa này đều cho thấy họ đã cố tình lập các công ty rồi cho người làm thuê, nhân viên của Tập đoàn Thiên Thanh làm giám đốc nhằm qua mặt các cán bộ BIDV. Chỉ đến khi điều tra vụ án, BIDV mới biết được cơ quan điều tra Bộ công an cho biết về các thông tin trên. Theo đó, không có chứng cứ nào để xác định rằng, tại thời điểm BIDV cho vay 12 công ty do VNCB giới thiệu theo cơ chế hợp tác gói liên kết 4 nhà được xem là cho chính ông Danh vay và vi phạm Luật các TCTD.
Về quan điểm VNCB bảo lãnh cho 29 lượt công ty vay vốn 3 ngân hàng là vi phạm Thông tư 28 của NHNN quy định về bảo lãnh ngân, theo luật sư Thiệp, với hồ sơ BIDV được cung cấp từ 12 công ty thì không có căn cứ để xác định đây là những đối tượng mà VNCB không được bảo lãnh. Hồ sơ pháp lý của 12 công ty đã được cơ quan đăng ký kinh doanh xác nhận hợp pháp, hợp lệ thì các Công ty này rõ ràng không có liên quan đến VNCB và cá nhân ông Danh.
Về ý kiến cho rằng hợp đồng cấp bảo lãnh giữa VNCB và 3 ngân hàng quy định điều 15 của Thông tư 28 có duy nhất chữ ký của Phan Thành Mai mà không có thành viên HĐTD nào khác của VNCB, luật sư cho rằng việc đảm bảo này là phù hợp, và việc này cũng đã được cơ quan giám định của NHNN xác nhận. Hơn nữa, việc cầm cố tiền gửi của VNCB là biện pháp đảm bảo bổ sung, BIDV không sử dụng biện pháp đảm bảo này mà tiền gửi của VNCB đã được BIDV trả lại đầy đủ cả gốc và lãi.
Về ý kiến cho rằng những người có trách nhiệm của 3 ngân hàng quyết định cho vay có sự thỏa thuận trước, chỉ nhằm vào tài sản đảm bảo là tiền gửi của VNCB mà bỏ qua các điều kiện cho vay khác theo Luật các TCTD và quy định khác là vi phạm pháp luật, bỏ mặc hậu quả xảy ra, chấp nhận có thể bị mất tiền, dẫn đến thiệt hại số tiền 6.120 tỷ nên 3 Ngân hàng cũng có hành vi cố ý làm trái.
Theo luật sư Thiệp, nhận định này hoàn toàn không có căn cứ. Bởi lẽ lời khai của Phạm Công Danh và các đồng phạm khác ở cơ quan điều tra và tại phiên tòa thể hiện rất rõ rằng BIDV không hề biết những việc làm sai trái của Phạm Công Danh, không có sự thỏa thuận trước. Việc Phạm Công Danh gặp lãnh đạo ngân hàng BIDV chỉ với mục đích duy nhất là giới thiệu khách hàng là các công ty phù hợp với thỏa thuận hợp tác gói 4 nhà.
Về quan điểm VKS cho rằng việc các công ty của Danh không thể trả tiền cho các ngân hàng và chính là việc mất tiền trên do hành vi cố ý làm trái của Danh, có sự giúp sức tích cực của những người có trách nhiệm ở 3 ngân hàng. Do đó, họ chịu trách nhiệm đối với hậu quả do mình gây ra.
Theo luật sư Thiệp, qua các lời khai cho thấy bị cáo Danh và các bị cáo thuộc VNCB đều thừa nhận hành vi vi phạm là của chính các bị cáo, không liên quan đến cá nhân tại 3 ngân hàng. Ông Danh, ông Mai cũng đã nhiều lần thừa nhận đó là thống nhất trong nội bộ của VNCB nhằm mục đích có tiền tăng vốn điều lệ chứ không nói cho bất kỳ một ai bên BIDV biết, do đó không thể quy kết là có sự giúp sức tích cực của những cán bộ nhân viên ở BIDV. Thiệt hại nếu có xảy ra VNCB là do VNCB, không hạch toán ghi nợ, không đối chiếu xác nhận nợ và không yêu cầu 12 công ty được bảo lãnh trả nợ ngay sau khi VNCB bảo lãnh trả nợ thay, thiệt hại này hoàn toàn do lỗi cố ý vi phạm của Phạm Công Danh và đồng phạm ở VNCB thì chính họ phải bồi thường cho VNCB chứ không thể yêu cầu bồi thường cho bất kỳ bên ngân hàng cho vay nào.
Về quan điểm ngân hàng 3 ngân hàng dùng tiền bảo lãnh cầm cố của VNCB để thu nợ là chưa hợp lý, vì là tiền của VNCB được hình thành chủ yếu từ huy động vốn của dân, tiền không phải là của Phạm Công Danh, nên đề nghị thu hồi bảo lãnh của Phạm Công Danh tại 3 ngân hàng để trả lại cho VNCB.
Luật sư cho rằng yêu cầu này là chưa thỏa đáng vì không có quy định nào cấm hay hạn chế việc TCTD sau khi huy động vốn thì không được gửi tiền tại TCTD khác, cũng không cấm thế chấp, bảo lãnh để vay vốn. Mặt khác, vốn huy động từ dân cư cũng chỉ một trong các nguồn vốn kinh doanh của TCTD, được hòa chung từ nhiều nguồn vốn khác nhau nên việc đưa ra lý lẽ tiền gửi để cầm cố cho 3 ngân hàngchủ yếu hình thành từ vốn huy động của dân cư để buộc trách nhiệm trả lại của 3 ngân hàng là hoàn toàn không có căn cứ pháp luật.
Bên cạnh đó, việc thu nợ của BIDV cũng là hợp pháp. 12 công ty đã trực tiếp chuyển trả nợ tiền vay cho BIDV thông qua ủy nhiệm chi từ tài khoản thanh toán của chính các Công ty. BIDV đã trả đầy đủ số tiền VNCB gửi, cầm cố bảo lãnh cho 12 công ty vay cho VNCB. BIDV không thu nợ từ tiền gửi cầm cố của VNCB nên không thể chuyển trả lại tiền gửi cho VNCB vì như vậy là trả 2 lần cho một khoản tiền gửi.
Luật sư Thiệp cũng có quan điểm như của luật sư bào chữa cho Phạm Công Danh, rằng nếu đặt ra lý do vì 3 ngân hàng thu nợ từ tiền gửi của VNCB tại 3 ngân hàng mà tiền gửi này chủ yếu là tiền gửi huy động từ dân cư chứ không phải tiền của Phạm Công Danh nên phải thu hồi trả lại cho VNCB thì đồng thời cũng phải ứng xử tương tự, cùng một cách tiếp cận với số tiền 4500 tỷ trong số 4700 tỷ BIDV cho 12 công ty vay vốn từ tháng 10/2013 đến nay đang được chiếm hữu, sử dụng cuối cùng bởi VNCB (nay là CB) vì tiền này cũng chủ yếu là từ nguồn tiền gửi huy động từ dân cư.
Về quan điểm VKS đề nghị thu hồi 6.126 tỷ từ 3 ngân hàng để trả lại cho ngân hàng Xây Dựng là đúng quy định của bộ luật hình sự, thì theo luật sư Thiệp, trong vụ án này, 3 ngân hàng không phải là người phạm tội cũng không phải là chủ thể chiếm đoạt hay sử dụng trái phép tài sản của VNCB nên không phải là chủ thể phải chịu trách nhiệm theo Bộ luật hình sự.
Cuối cùng, luật sư cho rằng quan điểm của VKS với BIDV là không phù hợp, không có lợi cho các ngân hàng cho vay mà chỉ có lợi cho VNCB. Nếu đề nghị của VKS được tòa chấp nhận thì nó sẽ trở thành một tiền lệ xấu, vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử xem xét có phán quyết nghiêm minh đảm bảo nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật đối với mọi tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế.
Theo Nhịp sống kinh tế